Ngày xưa, trong khu rừng vắng có một giếng nước trong mát, không bao giờ cạn gọi là giếng Tiên. Vì giếng ở cách xa chỗ dân làng sinh sống, người trần không mấy ai qua lại nên các nàng tiên trên trời thường xuống đây tu hội để tắm gội và chơi đùa thỏa thích.
 
Hồi ấy, ở cõi trần có một chàng trai làm ăn chăm chỉ nhưng sống một thân một mình. Một hôm, chàng lên rừng đốn củi nhưng quá chân lạc bước tới gần giếng Tiên. Chàng chợt trông thấy có ba nàng tiên đang mải mê tắm gội, cười đùa vui vẻ trong làn nước. Trên bờ có ba đôi cánh trắng muốt đặt trên thảm cỏ xanh.
 
Thế là chàng nảy ra ý định rình bắt một nàng tiên theo mình. Chàng liền rón rén bò đến lấy trộm một đôi cánh rồi nấp vào gốc cây.
 
Sau khi tắm xong, ba nàng tiên thong thả bước lên bờ. Hai nàng lấy được cánh của mình bay vút lên trời. Còn một nàng tiên bị mất cánh ngơ ngác tìm khắp nơi. Thấy vậy, chàng trai liền từ chỗ nấp bước ra.
 
Mặc dầu nàng tiên van khóc hết lời xin lại đôi cánh nhưng chàng trai nhất định không chịu trả lại.
 
Lúc ấy trời đã xế chiều, chàng làm bộ cương quyết ra về cùng với đôi cánh trên tay. Túng thế nàng tiên đành phải lẽo đẽo đi theo.
 
Về tới nhà, chàng trai liền bí mật giấu kĩ đôi cánh rồi mới ra soạn sửa áo quần, chăn chiếu và cơm nước cho nàng tiên. Từ đó, hai người trở thành vợ chồng.
 
Chẳng bao lâu, nàng tiên sinh được một bé trai kháu khỉnh. Thấm thoắt chú bé đã lên ba tuổi. Người chồng sung sướng nhìn con bập bẹ tập nói, còn vợ thì đã thưa nhắc đến chuyện đòi lại đôi cánh để về trời.
 
Một hôm, người chồng có việc phải đi xa ít ngày. Trước khi lên đường anh dặn vợ:
 
- Mẹ con ở nhà, có ăn thì ăn đụn lúa vang rồi sang đụn lúa ré, chớ ăn đụn lúa rẹ, có tổ ong vò vẽ đốt cả mẹ lẫn con.
 
Người vợ ăn hết đụn lúa vang chuyển sang ăn đụn lúa rẹ nhưng không thấy tổ ong vò vẽ nào cả. Sinh nghi, nàng liền tìm kiếm thì thấy đôi cánh giấu dưới cót thóc mà chồng dặn không được đụng đến.
 
Có được cánh, nàng tiên nóng lòng về thăm cha mẹ và anh chị em đã lâu không gặp. Nàng chuẩn bị cho con rất nhiều bánh rồi gài chiếc lược lên áo con và dặn:
 
- Con nhớ giữ lược cho cha nghe con!
 
Nói xong nàng liền vỗ cánh bay vút lên trời.
 
Khi người chồng trở về thấy chiếc lược cài trên áo con thì hiểu ngay sự việc. Chàng liền ôm con lặn lội tìm đến giếng Tiên. Chàng thấy một bà tiên từ trên trời xách thùng xuống lấy nước. Sau khi nghe chàng kể lể sự tình, bà tiên cho biết vợ chàng chính là Ả Chức và hứa sẽ giúp đỡ.
 
Hai cha con được bà tiên bí mật đưa lên trời gặp Ả Chức. Vợ chồng, mẹ con gặp nhau mừng mừng tủi tủi.
 
Nhưng vì Ngọc Hoàng không cho phép người trần thâm nhập thượng giới nên chỉ qua hai ngày là hai cha con phải trở về. Thế là Ả Chức đành phải ngậm ngùi chia tay chồng con.
 
Ả Chức trao cho chồng một mo cơm cùng với một cái trống và dặn:
 
- Hễ chân chạm đất thì đánh ba tiếng trống để trên này biết mà cắt dây.
 
Nhưng hai cha con ngồi thúng buộc dây xuống được nửa đường thì thằng bé khóc đòi ăn. Người cha liền lấy cơm cho con ăn. Chẳng may trong khi ăn, nó làm rơi vãi cơm lên mặt trống nên một đàn quạ đã sà xuống mổ lấy mổ để, khiến trống kêu vang.
 
Ả Chức nghe tiếng trống tưởng là cha con đã xuống đến nơi liền cắt dây.
 
Thế là hai cha con rơi xuống biển. Đàn quạ biết là có lỗi liền bay lên trời kêu vang cả lên khiến Ngọc Hoàng biết chuyện.
 
Sau khi biết rõ hoàn cảnh của vợ chồng Ả Chức, Ngọc Hoàng tỏ ra thương cảm. Ngài liền cho hai cha con lên trời và giao cho chàng việc chăn trâu. Vì thế người ta gọi chàng là Chàng Ngưu. Hằng ngày, chàng thả trâu của trời ăn cỏ nhưng chỉ được phép thả trâu bên kia bờ sông Ngân. Còn ở bên này bờ, Ả Chức vẫn ngày ngày dệt vải, nóng lòng mong nhớ chồng con.
 
Mỗi năm, Ngọc Hoàng chỉ cho Chàng Ngưu và Ả Chức gặp nhau một lần vào ngày mồng bảy tháng bảy. Đàn quạ vì có lỗi, ngày hôm ấy phải đội đá bắc cầu cho hai vợ chồng qua lại nên gọi là cầu Ô Thước.
 
Hằng năm, cứ đến ngày này, trời thường rỉ rả mưa phùn, người ta gọi là mưa Ngâu vì cho rằng đó là những giọt nước mắt của vợ chồng được gặp gỡ trong một ngày rồi lại ly biệt.